Chữ Nhẫn trong đạo Phật
Chịu và Đựng
Paramita dịch tiếng hán việt là Độ, có nghĩa là đi sang bờ bên kia, vượt bờ. Ta biết rằng ta có thể thực tập được chuyện vượt bờ bất cứ lúc nào trong ngày. Khi giận hờn thì ta đang ở bờ bên này, bờ của sự giận hờn, và ta muốn vượt qua bờ bên kia, bờ của sự thương yêu và tha thứ. Muốn qua bờ bên kia, ta phải sử dụng một chiếc bè nào đó mà ta đã tiếp nhận được từ Bụt, từ thầy, từ tăng thân. Đứng ở bờ bên kia nỗi buồn và cơn giận sẽ không còn nữa. Chúng ta biết rằng bờ bên kia không phải là chuyện xa vời. Bờ bên kia là cái có thể xẩy ra ngay trong giờ phút hiện tại.
Chữ nhẫn có nghĩa là chịu đựng. Danh từ “chịu đựng” là một danh từ rất hay. Nó dịch được chữ ksanti. Nó hay hơn chữ nhẫn nhục. Chữ nhẫn viết theo tiếng Hán có chữ tâm nằm dưới tức là tâm thức của ta, và trên chữ tâm có chữ nhận. Chữ nhận có nghĩa là mũi nhọn, giống như có một cây dao hay cái dùi có mũi nhọn đang làm chúng ta đau nhức. Tâm chúng ta phải làm thế nào để có thể ôm được, chấp nhận được sự nhức nhối đó. Đó là nghĩa của chữ nhẫn theo cảm nghĩ của người Trung Quốc. Trong khi đó tiếng Việt là chịu đựng. Chịu tức là chấp nhận. Chịu không, anh chịu không?” “Tôi chịu.” Cho dù có khó khăn, vất vả, cho dù có lao nhọc, dai dẳng, tôi vẫn gánh chịu được. Chữ chịu nầy là có nghĩa là sự chấp nhận (acceptance). Chúng ta biết rằng chấp nhận là một sự thực tập rất lớn. Khi chưa chấp nhận được chúng ta mới đau khổ nhiều. Giờ phút mà ta chấp nhận được thì ta đã có sự an bình trong lòng rồi.
Một người bị ung thư, lần đầu tiên được tin mình đang có bệnh ung thư, không thể tin được rằng mình có thể có ung thư. “Oh, no!”, người ấy nói như vậy. Người đó đau khổ và chống đối. Trách trời, trách đất, giận mình, giận người, giận tất cả. Và người đó phải vật lộn rất lâu với sự thật. Sự đau khổ lên tới cùng cực, kéo dài một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, mười ngày, hai mươi ngày. Thời gian đó là thời gian người ấy học tập để chấp nhận sự thật. Khi chấp nhận rằng tôi có ung thư, đây là một sự thật không thể nào chối cãi được, thì lúc đó ở trong tâm sẽ phát sinh một sự bình an. Chúng ta phần lớn chưa có, hoặc không có ung thư, nhưng chúng ta cũng có thể đã có cái kinh nghiệm tương tự.
Khi có một sự kiện bất như ý xảy ra trong đời sống, chúng ta thấy rằng chúng ta không thể chấp nhận được. Chúng ta nghĩ: làm sao sống được với tình trạng này, với cái gì đang xảy ra? Tại sao ta như thế này mà lại phải gặp một hoàn cảnh như thế kia? Tại sao ta như thế mà người ta lại đối xử với ta như thế? Ta phản kháng, ta chống đối, ta không chấp nhận. Nhưng sự thật là như vậy. Cuối cùng ta cũng phải học chấp nhận. Đó là nghĩa chữ chịu của tiếng Việt. Chữ thứ hai là đựng. “Đựng” có nghĩa là chứa đựng. Chúng ta có những cái chén có thể đựng nước. Chén nhỏ thì đựng được ít nước. Chén lớn thì đựng được nhiều nước. Nếu niềm đau nỗi khổ của ta lớn thì ta phải có một cái tâm khá lớn thì mới đựng được nó. Nếu không nó sẽ tràn ngập và làm ta khổ vô cùng. Tâm càng lớn thì nỗi khổ đau càng nhỏ, khi mà tâm đạt tới cái mức rất lớn (cực quảng, thậm đại) thì cái đau khổ đó tuy có mặt nhưng không đủ sức làm cho ta đau khổ.
Đây là một điều rất lạ lùng, nhưng rất dễ hiểu. Trong kinh Tăng Chi Bộ, Anguttara-Nikaya, Bụt có dùng một ví dụ rất hay. Bụt nói nếu trong một bát nước mà người ta thả vào một nắm muối thì nước ở trong bát đó uống không được. Nhưng nếu có một người đứng trên thuyền mà đổ một bát muối xuống dưới sông thì người ta vẫn có thể uống nước sông được như thường. Người ta uống nước sông được, không phải tại vì trong ấy không có muối, nhưng tại vì lòng sông quá lớn. Cho nên so với sông thì chút muối ấy không có nghĩa lý gì cả. Cũng vậy, khi ta có một nỗi khổ niềm đau, mà ta có một cái tâm quảng đại, thì nỗi khổ niềm đau đó không đủ sức làm cho ta đau khổ. Nó có đó chứ không phải là không có, nhưng vì ta có một sức chịu đựng rất lớn cho nên nỗi khổ niềm đau đó không có tác dụng gì trên cái tâm của chúng ta. Đó là nghĩa của chữ đựng.
Vì vậy cho nên Nhẫn Nhục Ba La Mật không phải là đè nén xuống, đè nén niềm đau, nỗi giận của mình xuống. Rất đông người học Phật không hiểu được chữ nhẫn, và nghĩ rằng nhẫn tức là ráng cắn răng đè niềm đau nỗi khổ xuống. Khi một dòng sông vĩ đại nhận một nắm muối nhỏ, nó đâu cần phải nghiến răng để đè niềm đau đó xuống đâu. Nó vẫn cười như thường, tại vì niềm đau nỗi khổ đó, nắm muối đó không có nghĩa lý gì hết. Vì vậy nhẫn nhục không có nghĩa là đè nén hay ức chế. Phương pháp cắn răng chịu đựng và cố nuốt đó rất nguy hiểm. Chúng ta đã từng thấy có nhiều người khi bị la mắng hay dày vò thì cố không có phản ứng, cố làm ra vẻ tươi cười. Chúng ta thấy được thiện chí của người đó. Nhưng mà sức người có hạn. Một tuần, hai tuần, ba tuần, bốn tuần…, cho đến một ngày nào đó, những cái mà chúng ta đè nén áp bức đó sẽ vùng dậy và giống như một dòng sông vỡ bờ, chúng sẽ làm ngập lụt cả vùng. Rất nguy hiểm.
Chúng ta đã từng thấy, chúng ta đã từng chứng kiến cảnh đó. Vì vậy cho nên nhẫn nhục quyết không phải là sự đè nén, không phải là sự ức chế. Nhẫn nhục tức là mở lòng ra cho tâm càng ngày càng lớn. Nếu chúng ta đè nén chúng xuống, tiếng Pháp gọi là refouler hay là supprimer, thì đến một mức nào đó chúng sẽ trở thành quá nặng như một vùng năng lượng đen tối bị cất giữ lâu ngày, đến một lúc nào đó sẽ bùng dậy. Chúng ta thấy có một cái gì giống như một cơn bão và chúng ta không hiểu tại sao người đó hôm nay lại hành xử bạo động như vậy. Chúng ta không ngờ rằng người đó có thể nói những điều như vậy và làm những điều như vậy. Một người thường thường mình thấy là không có gì bạo động, không có gì hung hãn mà ngày hôm ấy trở thành một người rất bạo động, rất hung hãn. Ta không thể nào nhận ra được người đó. Đó là kết quả của sự ức chế. Bụt không dạy như vậy. Bụt không dạy chúng ta ức chế và đè nén. Bụt dạy ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và làm cho tâm của chúng ta lớn lên bằng phương pháp quán chiếu.
Đựng nghĩa là chứa đựng. Muốn chứa đựng thì chúng ta phải có một dụng cụ, một đồ đựng. Đồ đựng đó nhỏ thì mình đựng được ít. Đồ đựng đó lớn thì mình đựng được nhiều. Dung tích của đồ đựng đó, chúng ta gọi là lượng. Lượng này là lượng của cái gì? Không phải là lượng của một cái chén, cái ly hay một cái lu, cái chậu, mà là lượng của tâm, tại vì chúng ta đang nói tới nhẫn nhục. Vì vậy cho nên lượng của tâm gọi là tâm lượng. Chúng ta khổ đau nhiều hay ít là do cái tâm lượng của chúng ta lớn hay nhỏ. Và tu tập có nghĩa là làm cho cái lượng của tâm càng ngày càng lớn. Lượng tâm càng lớn thì càng ít đau khổ, càng nhiều hạnh phúc.
Thích Nhất Hạnh
Nguồn: langmai.org