Thư giãn để trở về, để buông bỏ và tĩnh lặng. Bình an sẽ tìm về với bạn
Mỗi người đều có khả năng chế tác ra sự thư giãn với tư cách cá nhân và năng lượng đó sẽ ảnh hưởng tới tập thể. Khi bạn phát triển sự thư giãn, buông bỏ những lo lắng, sợ hãi và bạo động là hạnh phúc đang có mặt.
Mỗi người đều có khả năng chế tác ra sự thư giãn với tư cách cá nhân và năng lượng đó sẽ ảnh hưởng tới tập thể. Thí dụ một người giáo viên nếu có ý thức nuôi dưỡng sự thư giãn trong mình và chế tác sự thư giãn đó cho học sinh thì việc dạy và học sẽ thành công hơn. Giữa giáo viên và học sinh có sự nhẹ nhàng mà không phải căng thẳng mệt mỏi.
Đạo đế là con đường mà trong đó có những phương pháp đưa tới sự thư giãn.Yếu tố đầu tiên của hạnh phúc là biết thư giãn để chấm dứt sự lo lắng, sợ hãi. Đứng về phương diện sinh học thì chính sự căng thẳng tạo ra lo lắng, sợ hãi, bạo động và bệnh tật. Trong mình có tuyến yên, khi cảm thấy có tình trạng nguy hiểm thì tự nhiên tuyến yên tiết ra một chất hoá học trong máu, nội trong mấy giây sau chất hoá học đó đụng tới tuyến thường thận và nhả ra chất adrenalin, chất này vào trong máu thì sẽ khiến trái tim đập mạnh hơn để dồn máu tới hai chân hai tay và đôi mắt để đối phó với tình trạng nguy hiểm. Đó là phản ứng một là chống cự hai là bỏ chạy. Muốn chống cự hay bỏ chạy thì đều cần dùng tới rất nhiều năng lượng và cái các cơ năng khác phải dừng lại hết. Chất đó cũng khóa bộ máy tiêu hoá lại và không cho làm việc nữa. Lúc này cơ thể bị tạo ra sự căng thẳng. Nếu sự căng thẳng kéo dài thì nó sẽ làm hỏng bao tử và bộ phận tiêu hóa. Cho nên những người nào hay lo sợ rất có hại cho bao tử. Một thí dụ khác là trong lúc chạy đua thi đấu, trước khi người phát lệnh thổi còi cho bắt đầu cuộc thi thì đó chính là giây phút trong cơ thể các vận động viên tiết ra chất adrenalin. Nếu giây phút đó kéo dài quá lâu thì đương sự sẽ chết.
Đôi khi trong đời sống hằng ngày khi nghe tiếng điện thoại reo mình cũng lo. Có khi nhìn những tờ báo mình cũng thấy lo vì không biết cổ phần đang lên hay đang xuống. Tuy không có những lo lắng lớn hay nguy hiểm lớn xảy ra nhưng những lo lắng nhỏ trong đời sống hằng ngày cũng làm cho chất adrenalin tiếp tục được tiết ra và nó cũng khoá bộ máy tiêu hoá lại khiến mình bị căng thẳng. Những căng thẳng ấy cứ dồn chứa mỗi ngày sẽ sinh ra đủ thứ bệnh. Mỗi khi căng thẳng thì hành động trở nên thô tháo và lời nói cục cằn sẽ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, làm hư hoại tổ chức, bè bạn của mình. Do đó phải nắm cho được phương pháp thư giãn để giải tỏa những căng thẳng.
Những lúc ngồi thiền, thiền hành hay buông thư thì chất adrenalin không tiết ra. Buông thư toàn thân và nương vào hơi thở có ý thức thì trong mình bắt đầu có sự thư giản. Thở vào tôi ý thức đây là hơi thở vào, thở vào tôi sung sướng được thở vào. Thở vào tôi ý thức về thân thể tôi, thở ra tôi làm cho thân thể tôi thư giãn. Là một người thực tập, chúng ta phải biết nuôi dưỡng sự thư giãn trong mỗi giây phút. Khi làm việc với máy vi tính cũng có thư giãn mà đọc sách cũng thư giãn, lúc nào cũng thư giãn hết. Khi đi, phải đi sao cho bình an mà không vội vàng như bị ma đuổi, khi ngồi thì phải ngồi như đang ngồi trên một đóa sen. Trong lúc thư giãn thì nhịp đập của trái tim sẽ chậm lại và hệ miễn dịch được tăng cường. Thư giãn không phải chỉ là vấn đề thể chất và hình hài. Nếu trong tâm có điều bất an thì sự thư giản rất khó thực hiện, Do đó phải tổ chức lại đời sống hàng ngày để đừng bị áp lực quá nhiều, đừng để lo lắng, buồn khổ, muốn vậy thì phải quán chiếu cho sâu.
Khi có bạo động thì tức là trong thân thể không có sự buông thư, cho nên phải tập thở, tập đi để nhận diện và ôm ấp những bạo động, giận hờn, bực bội trong mình. Nếu những tâm hành đó được ôm ấp thì tự thiên nó sẽ lắng dịu. Nền văn minh mới của chúng ta tạo ra rất nhiều căng thẳng, cho nên sự thực tập của mình là làm lắng dịu thân tâm. Mà muốn thư giãn thì phải có thực hành những pháp môn cụ thể như buông thư, thiền hành, ngồi thiền…, Cho nên phải là đạo đức ứng dụng chư không phải là đạo đức lý thuyết. Phải biết rõ rằng muốn có thư giãn thì mình không nên làm gì và nên làm gì. Đạo đế được viết ra trong con đường bát chánh thì có chánh kiến và tà kiến. Các vị tổ sư giải thích chánh kiến là một cái thấy sâu sắc về bốn sự thật. Nhưng trí óc con người thường hay đi kiếm tìm sự thật của chân lý vạn hữu. Mình có ý muốn đi vào siêu hình học, thực thể học. Khuynh hướng hay phóng tâm ra vũ trụ và đăt những câu hỏi như, vũ trụ này từ đâu mà có? Những nguyên lý cai quản vũ trụ là những nguyên lý nào. Do những lý do này mà mình có siêu hình học và bản thể luận. Đức Thế Tôn rất thực tế, Ngài nói đừng phóng tâm ra vũ trụ bên ngoài, hãy đưa cái tâm về với tình trạng đích thực trong đó mình đang sống, phải nhận diện nỗi khổ đang có mặt, tìm ra nguồn gốc của khổ và phải tìm ra con đường thoát khổ. Rất là thực tế, hai chân chấm đất. Chánh kiến ở đây Đức Thế Tôn nói không phải là kiến thức về vũ trụ vạn hữu mà là về bốn sự thật. Mình phải có cái thấy khá vững chãi về bốn sự thật. Khi mới học về tứ diệu đế nghe nói về bốn sự thật, mình nói nó quá dễ nhưng thật sự thì mình chưa hiểu rõ về nó. Cách đây một năm có người hỏi Thầy là: “Thầy có hiểu hết về tứ diệu đế chưa?” Thầy trả lời rằng: “Chưa, tôi chưa hiểu hết, tôi vẫn đang trên con đường tìm hiểu”.
Muốn có được cái thấy sâu sắc đòi hỏi phải bỏ ra rất nhiều công phu tu tập. Phần lớn chúng ta chỉ nắm được ý niệm về bốn sự thật chứ chưa nắm được bốn sự thật, chúng ta không nắm được bản chất của một sự thật. Bốn sự thật tương tức, sự thật này nằm trong sự thật khác. Không hiểu được Khổ Đế thì không hiểu được Diệt Đế, ngược lại nếu không thấy được Diệt Đế thì không hiểu được Khổ Đế. Chánh kiến trước hết là cái thấy sâu sắc về bốn sự thật. Bốn sự thật tương tức với nhau, chúng không thể có mặt độc lập, chúng dính với nhau cho đến nỗi không thấy được cái này thì không thấy được cái kia. Khi nói tới chuyện trao truyền, khi không thấy được mình thì sẽ không thấy được cha mình. Chưa thấy được cha mình là ai thì không thấy được mình là ai. Khi thấy được sự tương tức của bốn sự thật thì tự nhiên mình cũng sẽ thấy được sự tương tức của các pháp. Tương tức là cái này chính là cái kia, cái này nằm trong cái kia, không có cái này thì không có cái kia. Không có sự thật nào có mặt riêng rẽ, cái này cũng gọi là “không”. Thí dụ như bông hoa, bông hoa do mặt trời, ánh nắng, đám mây…, cho nên bông hoa không có mặt riêng biệt, bông hoa đầy hết tất cả vũ trụ. Bông hoa là vũ trụ không có mặt riêng biệt. Bốn sự thật không có mặt một mình được, nêu không có bùn thì sẽ không có sen. Nếu như nhận bốn sự thật là riêng biệt thì mình rất sai lầm.
Trong Kinh Bát Nhã nói “không khổ, không tập, không diệt, không đạo”, bốn sự thật là không, bản chất của bốn sự thật này là bản chất của bốn sự thật kia. Sự thật thứ nhât được làm bằng sự thật thứ thứ hai thứ ba và thứ tư. Lấy sự thật thứ hai thứ ba thứ tư ra thì không có sự thật thứ nhất. Đó là tính tương tức của sự thật thứ nhất. Nếu thấy đựơc bốn sự thật có liên hệ với nhau thì mới đích thực là bốn sự thật.
Nguồn: langmai.org