6 tác hại khủng khiếp của phương pháp luyện ngủ ‘Cry it out’ cho con
Phương pháp luyện ngủ “Cry it out” bắt nguồn từ khi nào?
“Cry it out” – để bé khóc chán rồi sẽ thôi là ý tưởng bắt nguồn từ những năm 1880 khi y học phát hiện ra bệnh truyền nhiễm và vi khuẩn. Khi đó người ta tin rằng tốt nhất nên hạn chế sờ, chạm vào trẻ sơ sinh.
Thậm chí thời điểm đó, trong một cuốn sách còn khuyên rằng “người mẹ có nhiệm vụ phải giữ cho trẻ yên lặng, ngồi im không nghịch ngợm” và “người mẹ nên ngừng bế trẻ nếu tay quá mỏi” vì “trẻ nhỏ không được phép gây phiền toái cho người lớn”. Trẻ dưới 6 tháng tuổi “cần được dạy cách ngồi im trong cũi, nếu không người mẹ sẽ cứ phải trông chừng và chơi với nó – một công việc cực kỳ lãng phí thời gian”.Vào đầu thế kỉ 20, John Watson (1928), trong cuộc đối đầu với các nhà tâm lí học khác, đã xây dựng học thuyết cảnh báo rằng tình yêu thương quá nhiều của mẹ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ. Thế kỷ 20 là thế kỷ mà người ta luôn cho rằng không phải bà, mẹ mà những ông bố mới là người biết nuôi dạy con đúng cách. Yêu thương trẻ quá nhiều sẽ khiến trẻ ỷ lại và luôn thất bại sau này.
Bạn nghe những lời khuyên này có thấy quen tai không? Nó cũng tương tự như những lời khuyên bố mẹ nên rèn con tự ngủ, trẻ khóc là trẻ hư đấy.
Trở lại với học thuyết yêu trẻ nhiều sẽ có tác hại xấu đến trẻ của John Watson vào năm 1928, mỉa mai thay học thuyết này hoàn toàn không có chứng cứ thuyết phục. Và bây giờ rõ ràng là ngược lại: Thiếu tình thương mới là điều hiểm nguy với trẻ.
Trẻ nhỏ cần được đáp ứng nhu cầu, cụ thể là khóc cần được dỗ nín
Quan điểm của John Watson, người đưa ra học thuyết sai lè trên nhìn nhận trẻ nhỏ như một “vật cản” trong cuộc sống của bố mẹ. Bố mẹ phải kiểm soát trẻ bằng mọi cách để được sống thoải mái mà không cần bận tâm hay lo lắng quá nhiều. Thái độ này rõ ràng là sai lầm bởi đừng bao giờ hy vọng mình sẽ nhàn hạ khi quyết định có con. Nếu muốn nhàn, muốn sướng thì đừng sinh con nữa.Với những chứng cứ rõ ràng từ Khoa học thần kinh, tiến sỹ y khoa Darcia Narvaez khẳng định: Để trẻ tự khóc rồi tự ngủ là một thói quen sẽ tổn hại trẻ và những mối quan hệ của trẻ về lâu dài. Thậm chí để trẻ khóc mà không dỗ nín sẽ khiến trẻ kém thông minh hơn, kém khỏe mạnh hơn, thay vào đó trẻ bất an nhiều hơn và sau này khó hòa nhập cũng như hợp tác tốt với cộng đồng.
Tiến sỹ y khoa Darcia Narvaez khẳng định thêm: “Việc thúc ép trẻ nhỏ tự lập sẽ càng khiến trẻ ỷ lại và bị động. Thay vào đó, đáp ứng nhu cầu của trẻ mới là điều khiến trẻ lớn lên trở thành người tự lập” (kết luận dựa trên nghiên cứu của Hewlett & Lamb vào 2005).
Sự thật là nếu bố mẹ có thói quen đáp ứng nhu cầu của trẻ nhỏ trước khi trẻ tuyệt vọng, dỗ trẻ trước khi trẻ khóc to sẽ là những bố mẹ có con tự lập và thành đạt hơn nhóm bố mẹ hành động ngược lại. “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, một khi sự tuyệt vọng, uất ức trong trẻ dâng trào, sẽ rất khó cho bố mẹ trấn an cũng như khiến trẻ bình tĩnh trở lại. Đây là lý giải tại sao nếu bố mẹ để trẻ khóc lâu rồi mới đến vỗ về, trẻ sẽ khóc nấc hoặc thậm chí khóc to hơn. Dân gian thường gọi hiện tượng này là “trẻ hờn” là vì thế.
Phương pháp luyện ngủ “Cry it out” khuyên bố mẹ nên để trẻ khóc một mình trong cũi, nôi hoặc trong phòng đến khi chán thì thôi. Quan điểm này xuất phát từ sự hiểu lầm về phát triển não bộ của trẻ em. Chúng ta cần hiểu: Phương pháp luyện ngủ “Cry it out” đã lỗi thời và lạc hậu
– Trẻ cần được bế ẵm và trẻ lớn lên được cũng nhờ bế ẵm. Cơ thể của trẻ sẽ xảy ra những rối loạn nhất định nếu bị tách khỏi mẹ khi còn quá nhỏ.
– Trẻ dùng cử chỉ, điệu bộ để biểu đạt nhu cầu. Nếu chưa được đáp ứng nhu cầu, trẻ sẽ khóc. Cũng như người lớn khi khát sẽ đi uống nước, trẻ cũng sẽ tìm bầu vú mẹ nếu đói, khóc nếu bất an, sợ hãi, buồn ngủ hay cần được mẹ ôm. Trẻ nhỏ cũng như người lớn, tinh thần sẽ ổn định lại sau khi được đáp ứng mong muốn.
– Trẻ không được đáp ứng nhu cầu sẽ phải chịu những tác động xấu về lâu dài.
– Dỗ trẻ khi trẻ khóc nửa đêm, khi trẻ bất ngờ tỉnh giấc là cách nuôi dạy trẻ tích cực.
– Người ta lầm tưởng trẻ tự ngủ sẽ trở nên độc lập hơn. Sự thực là trẻ chỉ có thể lớn lên độc lập nếu khi còn nhỏ, nhu cầu của trẻ được đáp ứng.6 tác hại khủng khiếp của phương pháp luyện ngủ “Cry it out”
– Trẻ tự dỗ ngủ lúc ấu thơ khi lớn lên trong thẳm sâu sẽ luôn đói tình thương và luôn cảm thấy bất an.
– Sự liên kết tế bào thần kinh bị hủy hoại.
Khi trẻ khóc hoặc buồn phiền, hệ thần kinh của trẻ bị tác động, khi đó hormone cortisol được tiết ra. Đây là hocmon giết chết các nơ-ron thần kinh một cách dần dần.
Một em bé sơ sinh chào đời đủ ngày đủ tháng (40-42 tuần), não bộ mới chỉ phát triển 25% và hứa hẹn sẽ phát triển nhanh mạnh thêm sau khi chào đời. Tròn 1 tuổi, não bộ của trẻ phát triển lớn gấp 3 so với lúc sơ sinh. Cần biết rằng kích thước bộ não sau năm đầu này là yếu tố quan trọng quyết định trí thông minh của trẻ. Ai biết rằng trong năm đầu đời đó, có bao nhiêu nơ-ron thần kinh trong não bộ trẻ không được kết nối, thay vì đó bị giết chết bởi chính bố mẹ. Bởi bố mẹ làm ngơ khi trẻ khóc, trẻ cần đáp ứng nhu cầu.
– Sức khỏe trẻ kém hơn.
Khi bị để mặc cho khóc thoải mái, trẻ sẽ bị rối loạn phản ứng với stress, căng thẳng. Rối loạn này không chỉ xảy ra trong não bộ trẻ mà còn xảy ra trong toàn bộ cơ thể thông qua dây thần kinh phế vị – dây thần kinh ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể (như hệ tiêu hóa). Nếu trẻ bị đau buồn kéo dài, không được bố mẹ đáp ứng nhu cầu, dây thần kinh này sẽ hoạt động kém, gây ra các rối loạn khác nhau như ruột kích thích.
– Trẻ quên luôn cách giao tiếp để nêu lên nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu dẫn đến EQ thấp và không hạnh phúc thành công trong cuộc sống.
Khi bố mẹ đáp ứng nhu cầu của trẻ, vỗ về trẻ khi trẻ sợ hãi, cơ thể trẻ từ trạng thái lo lắng chuyển sang cân bằng. Trẻ sẽ học được cách tự điều chỉnh cảm xúc từ đó. Trẻ khóc và được bố mẹ bế lên, trong trẻ sẽ hình thành khái niệm mong đợi được dỗ dành. Ngược lại nếu để trẻ khóc một mình, dĩ nhiên dần dần trẻ sẽ tự nín khóc, nhưng là nín khóc trong trạng thái tuyệt vọng. Từ lần sau, trẻ thấy tiếng khóc của mình vô nghĩa và đó không còn là cách giao tiếp hiệu quả nữa.
– Trẻ mất niềm tin, lớn lên sẽ có xu hướng ích kỉ, không chia sẻ, không tin tưởng ai.
Erik Erikson đã chỉ ra, năm đầu đời là thời điểm nhạy cảm để thiết lập cảm giác tin tưởng. Khi nhu cầu của trẻ được đáp ứng, trẻ tin rằng thế giới này là nơi đáng tin cậy, có người hỗ trợ trẻ (bố mẹ, người thân), bản thân trẻ có giá trị vì được đáp ứng nhu cầu. Khi bố mẹ lờ đi nhu cầu của trẻ, trẻ dần mất lòng tin vào mối quan hệ và thế giới xung quanh.
Hàn Vân dịch
Nguồn: psychologytoday.com